Một câu hỏi thường gặp của những người mới bắt đầu lập trình là “Nên học hay nên dùng ngôn ngữ lập trình nào?”. Đây không chỉ là mối băn khoăn của các bạn trẻ chập chững bước vào thế giới “0 và 1” mà còn của cả những người trong nghề muốn củng cố hay nắm bắt cơ hội nghề nghiệp. Không có một qui tắc đơn giản để phân hạng các ngôn ngữ (NN). Mỗi NN đều có những điểm mạnh và điểm yếu. Một NN có thể “sáng chói” trong một số lĩnh vực nhưng trong một số lĩnh vực khác bạn lại phải “đánh vật” với nó. Sự lựa chọn NNLT có thể xem như vấn đề “tín ngưỡng” cá nhân. Tuy vậy, có một số cơ sở giúp bạn đưa ra quyết định đúng đắn.
Phân loại Ngôn ngữ lập trình
Ngôn ngữ lập trình (NNLT) là phương tiện để giao tiếp và ra lệnh cho máy tính thực hiện những công việc cụ thể. Máy tính chỉ có thể hiểu các con số 0 và 1, nhưng con người lại không thành thạo kiểu suy nghĩ với các con số này để ra lệnh cho máy tính. Vì vậy người ta đã phát triển các dạng câu lệnh mà con người có thể đọc hiểu, tập các câu lệnh này được gọi là mã nguồn (source code). Mã nguồn phải tuân thủ một tập các từ vựng, cú pháp và qui tắc do những người thiết kế NN đặt ra. Ví dụ, đoạn mã nguồn mẫu ra lệnh cho máy tính hiển thị dòng chữ “Xin chào.” trên màn hình:
#!/usr/bin/perl
print “Xin chào.”
Mã nguồn được một phần mềm thiết kế đặc biệt có thể hiểu các câu lệnh và dịch thành dạng mã mà máy có thể hiểu và thực thi.
Cấp thấp và cấp cao
Một cách tổng quát, một NNLT có 2 thành phần chính: (1) tập các thành phần cơ bản của NN (lệnh, hàm, thủ tục...) có thể kết hợp thành chương trình, và (2) bộ biên dịch để chuyển mã nguồn thành mã máy.
Những NNLT thế hệ đầu tiên gần gũi với mã máy và thường gắn chặt với nền tảng phần cứng, các thế hệ NNLT mới hơn gần gũi với con người hơn và ít lệ thuộc nền tảng phần cứng hơn. Xét theo khía cạnh này, có thể phân các NNLT thành 3 nhóm.
1. Các NNLT cấp thấp (LLL - Low Level Language), 'hướng đến máy tính“, tương tác trực tiếp với phần cứng. Các NN này có tập lệnh tương ứng với tập lệnh của CPU. Có 2 loại NNLT cấp thấp: NN mã máy dùng các con số và NN Assembly dùng các từ gợi nhớ. Các NNLT cấp thấp nhanh và hiệu quả trong việc tương tác với phần cứng.
2. NNLT cấp cao (HLL - High Level Language), 'hướng đến nhiệm vụ“, có từ vựng giống tiếng Anh giúp dễ dàng trong việc viết chương trình. Các NN này có cú pháp chặt chẽ, có khả năng chạy trên nhiều hệ thống phần cứng khác nhau. Đa phần các phần mềm được phát triển dùng các NN này. Các NNLT quen thuộc trong nhóm này như C, C++, Pascal, Java...
3. NNLT cấp rất cao (VHLL - Very High Level Language), 'hướng đến con người“, được thiết kế để phát triển các ứng dụng chuyên biệt mà không đòi hỏi nhiều kiến thức về lập trình. Các NN này khá mới và vẫn đang tiếp tục phát triển. VHLL tương tự HLL nhưng dễ học và dễ sử dụng hơn. VHLL có nhiều loại, có thể kể 2 loại thông dụng nhất:
- Các NN tương tác (authoring) như NN đánh dấu (HTML, DHTML, XML) và NN mô hình (VRML) dùng để tạo trang web và nội dung đa phương tiện.
- Các NN kịch bản (scripting) như JavaScript dùng để viết các chương trình nhỏ đi kèm các trang web để tạo các hiệu ứng động và tương tác.
Tổng quát và chuyên biệt
Xét ở cấp độ tổng quát, tất cả các NNLT đều tương tự nhau. Chúng đều yêu cầu bạn 'mô tả“vấn đề cần giải quyết và đều đòi hỏi các kỹ năng tương tự. Nếu nắm vững một NN, bạn sẽ có đất để sử dụng những kỹ năng của mình với một NN khác. Nhưng thực tế ứng dụng có những NN thực hiện những kỹ thuật hay giải quyết những dạng vấn đề chuyên biệt dễ hơn những NN khác, và có những NN có khả năng thực hiện nhiều dạng ứng dụng.
Không có lằn ranh rõ ràng giữa các NN chuyên biệt và NN tổng quát. Tuy nhiên có thể phân định một cách đơn giản như sau: Các NN tổng quát được thiết kế để viết các chương trình lớn, có cú pháp phức tạp, thời gian biên dịch dài và phải thực hiện biên dịch trước, và có bộ thư viện riêng. Nói chung các NN tổng quát có thể dùng cho bất kỳ công việc tính toán nào, tuy nhiên thực tế thường mỗi NN thích hợp hơn với một lĩnh vực nhất định nào đó: Fortran thích hợp cho tính toán khoa học; Java dùng cho ứng dụng phân tán không lệ thuộc nền tảng hệ thống; C dùng cho lập trình hệ thống và trình biên dịch; Pascal thích hợp cho việc giảng dạy về lập trình...
Các NN chuyên biệt được thiết kế cho các chương trình nhỏ, cú pháp đơn giản, thường được biên dịch lúc thực thi, và có nhiều tác vụ xây dựng sẵn. Nói chung, các NN chuyên biệt chỉ dùng trong các ứng dụng chuyên biệt: Matlab dùng trong toán học, SQL dùng trong cơ sở dữ liệu, PHP dùng để tạo trang web...
Một số lĩnh vực ứng dụng đặc thù có thể dùng các NN tổng quát nhưng phải bổ sung thêm các hàm thư viện và môi trường đặc biệt. Ví dụ, lập trình đồ hoạ có thể dùng bất kỳ NN tổng quát nào kết hợp với một tập các hàm đồ hoạ.
Mô hình tính toán
Mô hình tính toán của một NNLT tổng quát có ảnh hưởng đến khả năng sử dụng của nó trong một lĩnh vực đặc thù. Có các mô hình tính toán chính: lệnh hay thủ tục (imperative, procedural), khai báo hay phi thủ tục (declarative, non-procedural), hướng đối tượng (object-oriented) và kịch bản (scripting).
Với các NN lệnh, chương trình bao gồm chuỗi lệnh mô tả cách thức thay đổi dữ liệu (trạng thái). Fortran, Cobol, C và Pascal thuộc nhóm này.
Trong khi các NN lệnh chú trọng đến cách thức giải quyết vấn đề, các NN khai báo quan tâm đến vấn đề cần giải quyết, định nghĩa đầu vào và đầu ra của chương trình. Có 2 loại NN khai báo: NNLT chức năng như Lisp và Haskell, và NNLT luận lý như Prolog.
Ở các NNLT hướng đối tượng, toàn bộ thông tin để giải quyết vấn đề (dữ liệu và tác vụ) được nhóm chung lại thành các đối tượng. Các NN hướng đối tượng thuần tuý như Smalltalk và Java chỉ hỗ trợ mô hình này, còn có NN lai như C++ hỗ trợ cả các mô hình khác.
Chọn NNLT
Hiện có rất nhiều NNLT (con số có thể lên đến hàng trăm). Mỗi NNLT đều có những điểm mạnh và điểm yếu. Có một số yếu tố kỹ thuật và cả phi kỹ thuật tác động đến việc chọn NNLT.
Yếu tố kỹ thuật
- Yêu cầu của ứng dụng: có những NN phù hợp với những ứng dụng đặc thù.
- Nền tảng hệ thống: Ứng dụng sẽ chạy trên nền Intel, Sun, HP hay máy chủ IBM? và hệ điều hành Windows, Sun Solaris, Linux hay IBM OS? Không phải tất cả các NNLT đều có thể chạy trên mọi nền tảng hệ thống.
- Phát triển và bảo trì: NN có hỗ trợ phát triển ứng dụng nhanh và dễ bảo trì?
- Công cụ hỗ trợ và tài liệu: Công cụ hỗ trợ thường là một trong những yếu tố then chốt trong việc chọn NN. Các NN có công cụ hỗ trợ và tài liệu tốt thường dễ phổ biến, ví dụ như Visual Basic.
Yếu tố phi kỹ thuật
- Sự phổ biến của NN: Sự phổ biến, theo nghĩa thị phần và số lập trình viên sử dụng NN, có ảnh hưởng đến việc chọn lựa NN. Với một NN phổ biến như C bạn sẽ dễ dàng tìm thấy nhiều nguồn tài liệu và sự trợ giúp hơn là một NN ít được dùng hơn như Ada.
- Kinh tế: NN có được hỗ trợ tốt bởi các tổ chức thương mại hay cộng đồng phát triển phần mềm miễn phí? (Nghĩa là trình biên dịch và môi trường phát triển của NN sẽ được tiếp tục phát triển trong tương lai).
Chọn đúng công cụ cho công việc
Thực sự, khó có thể nói NNLT nào tốt hơn. Với bất kỳ NN nào cũng đều có những chương trình được viết rất tốt hay dở tệ. Chất lượng của chương trình chịu ảnh hưởng bởi chất lượng của lập trình viên nhiều hơn là chất lượng của NN. NNLT khó nhất chính là NN đầu tiên mà bạn học. Có một số NN có thể giúp cho việc viết chương trình dễ hơn đối với một số dạng ứng dụng, và ngược lại. Ví dụ C rất mạnh về lập trình hệ thống nhưng nếu dùng để viết ứng dụng quản lý dữ liệu thì bạn sẽ phải vất vả xây dựng những thứ đã có sẵn trong dBase hay Foxpro.
Việc xác định các yêu cầu và mục đích sẽ giúp bạn chọn được NN thích hợp. Hãy chọn NN phù hợp với công việc, hay tốt hơn, chọn cả hai. Nếu bạn định viết ứng dụng có yêu cầu xử lý giao diện, nên chọn NN có hỗ trợ đồ họa, như Visual Basic chẳng hạn. Bạn có thể đặt câu hỏi 'NN nào thực hiện việc này dễ hơn?“ thay vì 'Làm thế nào để thực hiện việc này với C++?“.
Có thể ứng dụng của bạn có nhiều phần với nhiều yêu cầu khác nhau. Chẳng hạn như chương trình game, có những phần (gồm trí tuệ nhân tạo, luật chơi, giao diện người dùng...) chỉ yêu cầu việc xây dựng và thay đổi dễ dàng, nhưng không yêu cầu tốc độ; nhưng có những phần (như đồ họa) lại đòi hỏi tốc độ.
Một cái áo không bắt buộc dùng chỉ một màu. Trong lập trình cũng vậy, không nhất thiết phải dùng một NN cho toàn bộ chương trình. Có các cách thức cho phép bạn 'nhúng“ gần như bất kỳ NN nào vào một NN khác. Cách này giúp cho bạn khai thác ưu điểm của từng NN. Tuy nhiên nên cẩn thận, có quá nhiều 'màu sắc“ sẽ làm bạn rối trí!
Và một điều nên lưu ý: Không hẳn các NN mới hơn luôn là lựa chọn tốt hơn. C++ mới hơn C, thế nhưng C vẫn tồn tại vì vẫn có ưu thế về tốc độ và kích thước nhỏâ gọn.
Trở lại câu hỏi ban đầu, 'Nên học hay dùng ngôn ngữ lập trình nào?“, có thể bạn tìm thấy lời giải với vấn đề được đặt ngược lại: 'Để làm gì?“.
SỰ LỰA CHỌN CỦA CÁC NHÀ PHÁT TRIỂN
Theo số báo cáo Worldwide IT Benchmark 2003 của META Group, C++ và Java tiếp tục là các NNLT được lựa chọn hàng đầu để phát triển ứng dụng, chiếm tỉ lệ lần lượt là 18% và 16,7%. HTML, JavaScript, ASP và XML cũng là nhóm NNLT quan trọng chiếm vị trí thứ 3 với tỉ lệ 13,6%, năm trước nhóm NNLT này chiếm tỉ lệ 9,7%. Việc dễ lập trình cùng với xu hướng phát triển của web có lẽ là lý do của sự gia tăng này. Tuy rất nổi tiếng với công cụ phát triển mạnh và được nhiều người dùng nhưng vị trí của Visual Basic trong ngành công nghiệp phần mềm khá khiêm tốn, chiếm vị trí thứ 4 với tỉ lệ 9,8%.
Báo cáo cũng cho thấy Windows vẫn duy trì vị trí dẫn đầu trong lựa chọn nền tảng phát triển, chiếm tỉ lệ áp đảo 61,9% (năm 2002, 53,1%). Nền tảng IBM chiếm vị trí thứ 2 với tỉ lệ 18,3%. Vị trí thứ 3 thuộc về Sun Solaris, 9,4%.
Nhìn chung, số liệu của META Group có sự tương đồng (ngoại trừ trường hợp của VB) với số liệu của một trong những công ty phần mềm hàng đầu ở Việt nam, công ty ParagonSolutions (PSV).
NGÔN NGỮ LẬP TRÌNH
Đây là danh sách các NNLT, từ những NN đã có cách đây hàng chục năm đến những NN mới xuất hiện gần đây, chủ yếu là các NN tổng quát. Các NN được nhóm theo các tính năng tương đồng. Vì giá trị lịch sử, có một số NN “chết” hay ít được sử dụng hiện diện trong danh sách. Danh sách này có thể chưa đầy đủ.
NGÔN NGỮ MÁY dùng các số 0 và 1 để “ra lệnh” cho bộ xử lý. Tập lệnh chỉ tương thích trong cùng họ CPU và rất khó lập trình.
NGÔN NGỮ ASSEMBLY gần giống như NN máy nhưng có ưu điểm là tập lệnh dễ đọc . Nói chung mỗi lệnh trong Assembly (như MOV A,B) tương ứng với một lệnh mã máy (như 11001001). Chương trình Assembly được biên dịch trước khi thực thi. Nếu cần tốc độ và kích thước chương trình thật nhỏ, Assembly là giải pháp.
C đạt được sự thỏa hiệp giữa việc viết code hiệu quả của Assembly và sự tiện lợi và khả năng chạy trên nhiền nền tảng của NNLT cấp cao có cấu trúc. NN hơn 20 năm tuổi này hiện vẫn được tin dùng trong lĩnh vực lập trình hệ thống. Có các công cụ thương mại và miễn phí cho gần như mọi HĐH.
C++ là NN được dùng nhiều nhất hiện nay, đa số phần mềm thương mại được viết bằng C++. Tên của NN có lý do: C++ bao gồm tất cả ưu điểm của C và bổ sung thêm các tính năng hướng đối tượng. Có các công cụ thương mại và miễn phí cho gần như mọi HĐH.
C# [phát âm 'C sharp“] là lời đáp của Microsoft đối với Java. Do không đạt được thỏa thuận với Sun về vấn đề bản quyền, Microsoft đã tạo ra NN với các tính năng tương tự nhưng chỉ chạy trên nền Windows.
JAVA là phiên bản C++ được thiết kế lại hợp lý hơn, có khả năng chạy trên nhiều nền tảng; tuy nhiên tốc độ không nhanh bằng C++. Có các công cụ miễn phí và thương mại hỗ trợ cho hầu hết các HĐH hiện nay. Tuy Microsoft đã gỡ bỏ hỗ trợ Java khỏi cài đặt mặc định của các phiên bản Windows mới, nhưng việc bổ sung rất dễ dàng.
PASCAL được thiết kế chủ yếu dùng để dạy lập trình, tuy nhiên nó đã trở nên phổ biến bên ngoài lớp học. Pascal yêu cầu tính cấu trúc khá nghiêm ngặt. Có các công cụ thương mại và miễn phí cho DOS, Windows, Mac, OS/2 và các HĐH họ Unix. Trình soạn thảo website BBEdit được viết bằng Pascal.
DELPHI là phiên bản hướng đối tượng của Pascal được hãng Borland phát triển cho công cụ phát triển ứng dụng nhanh có cùng tên. Môi trường Delphi được thiết kế để cạnh tranh với Visual Basic của Microsoft, hỗ trợ xây dựng giao diện nhanh bằng cách kéo thả các đối tượng và gắn các hàm chức năng. Khả năng thao tác CSDL là một ưu điểm khác của NN. Borland, có các công cụ thương mại cho Windows và Linux.
BASIC ['Beginner’s All-purpose Symbolic Instruction Code“] là NNLT đầu tiên dùng cho máy vi tính thời kỳ đầu. Các phiên bản hiện đại của BASIC có tính cấu trúc hơn. Có các công cụ thương mại và miễn phí cho DOS, Windows, Mac và các HĐH họ Unix.
VISUAL BASIC [phiên bản của Basic cho môi trường đồ hoạ] là NN đa năng của Microsoft. Nó bao gồm BASIC, NN macro của Microsoft Office (VBA – Visual Basic for Application), và công cụ phát triển ứng dụng nhanh. Tiếc là ứng dụng VB chỉ có thể chạy trên Windows và bạn bị lệ thuộc vào những chính sách thay đổi của Microsoft. (Chương trình viết bằng VB 6 hay các phiên bản trước sẽ không hoàn toàn tương thích với VB.NET)
ADA phần lớn dựa trên Pascal, đây là một dự án của Bộ Quốc Phòng Mỹ. ADA có nhiều điểm mạnh, như cơ chế kiểm soát lỗi, dễ bảo trì và sửa đổi chương trình. Phiên bản hiện thời có cả các tính năng hướng đối tượng.
ICON là NN thủ tục cấp cao. Xử lý văn bản là một trong những điểm mạnh của nó. Có các phiên bản cho Windows, HĐH họ Unix và các môi trường Java; các phiên bản cũ hơn hỗ trợ các HĐH khác.
SMALLTALK môi trường phát triển hướng đối tượng và đồ hoạ của Smalltalk chính là nguồn cảm hứng cho Steve Jobs và Bill Gates 'phát minh“ giao diện Mac OS và Windows.
RUBY hợp một số tính năng tốt nhất của nhiều NN khác. Đây là NN hướng đối tượng thuần túy như Smalltalk, nhưng có cú pháp trong sáng hơn. Nó có khả năng xử lý văn bản mạnh tương tự như Perl nhưng có tính cấu trúc hơn và ổn định hơn.
PERL thường được xem đồng nghĩa với “CGI Scripting”. Thực tế, Perl “lớn tuổi” hơn web. Nó 'dính“ vào công việc lập trình web do khả năng xử lý văn bản mạnh, rất linh động, khả năng chạy trên nhiều nền tảng và miễn phí.
TCL (phát âm 'tickle“) có thể tương tác tốt với các công cụ dùng văn bản như trình soạn thảo, trình biên dịch... dùng trên các HĐH họ Unix, và với phần mở rộng TK nó có thể truy cập tới các giao diện đồ hoạ như Windows, Mac OS và X-Windows, đóng vai trò kết dính các thành phần lại với nhau để hoàn thành các công việc phức tạp. Phương pháp mô-đun này là nền tảng của Unix
PYTHON là NN nguồn mở, hướng đối tượng, tương tác và miễn phí. Ban đầu được phát triển cho Unix, sau đó 'bành trướng“ sang mọi HĐH từ DOS đến Mac OS, OS/2, Windows và các HĐH họ Unix. Trong danh sách người dùng của nó có NASA và RedHat Linux.
PIKE cũng là NN nguồn mở, miễn phí được phát triển cho nhu cầu cá nhân, và hiện được công ty Roxen Internet Software của Thuỵ Điển phát triển dùng cho máy chủ web trên nền Roxen. Đây là NN hướng đối tượng đầy đủ, có cú pháp tương tự C, và có thể mở rộng để tận dụng các mô-đun và thư viện C đã biên dịch để tăng tốc độ. Nó có thể dùng cho các HĐH họ Unix và Windows.
PHP (Hypertext Pre-Processor) là NN mới nổi lên được cộng đồng nguồn mở ưa chuộng và là mô-đun phổ biến nhất trên các hệ thống Apache (web server). Giống như CFML, mã lệnh nằm ngay trong trang web. Nó có thể dễ dàng truy cập tới các tài nguyên hệ thống và nhiều CSDL. Nó miễn phí và tính khả chuyển đối với các HĐH họ Unix và Windows.
MACROMEDIA COLDFUSION có mã lệnh CFML (Cold Fusion Markup Language) được nhúng trong trang web rất giống với thẻ lệnh HTML chuẩn. Rất mạnh, có các công cụ để truy cập nhiều CSDL và rất dễ học. Hạn chế chính của nó là giá cả, tuy nhiên có phiên bản rút gọn miễn phí. Chạy trên Windows và các HĐH họ Unix.
ACTIVE SERVER PAGES (ASP) được hỗ trợ miễn phí với máy chủ web của Microsoft (IIS). Thực sự nó không là NNLT, mà được gọi, theo Microsoft, là 'môi trường lập kịch bản phía máy chủ“.Nó dùng VBScript hay JScript để lập trình. Chỉ chạy trên Windows NT/2K. Microsoft đã thay NN này bằng ASP.NET, tuy có tên tương tự nhưng không phải là bản nâng cấp.
JAVASERVER PAGES (JSP) là NN đầy hứa hẹn. Nó dùng Java, có phần mềm máy chủ nguồn mở và miễn phí (Tomcat). Có thể chạy trên hầu hết các máy chủ web, gồm Apache, iPlanet và cả Microsoft IIS.
LISP ['LISt Processing“] là NNLT 'có thể lập trình“, được xây dựng dựa trên khái niệm đệ quy và có khả năng thích ứng cao với các đặc tả không tường minh. Nó có khả năng giải quyết những vấn đề mà các NN khác không thể, đó là lý do NN hơn 40 năm tuổi này vẫn tồn tại. Yahoo Store dùng Lisp.
PROLOG [“PROgramming in Logic”] được thiết kế cho các bài toán luận lý, ví dụ như “A bao hàm B, A đúng, suy ra B đúng” – một công việc khá khó khăn đối với một NN thủ tục.
COBOL [“Common Business-Oriented Language”] có tuổi đời bằng với điện toán thương mại, bị buộc tội không đúng về vụ Y2K, và dù thường được dự đoán đến hồi cáo chung nhưng nó vẫn tồn tại nhờ tính hữu dụng trong các ứng dụng xử lý dữ liệu và lập báo cáo kinh doanh truyền thống. Hiện có phiên bản với các tính năng hướng đối tượng và môi trường phát triển tích hợp cho Linux và Windows.
FORTRAN [“FORmula TRANslation”] là NN xưa nhất vẫn còn dùng. Nó xuất sắc trong công việc đầu tiên mà máy tính được tin cậy: xử lý các con số. Theo đúng nghĩa đen, đây là NN đưa con người lên mặt trăng (dùng trong các dự án không gian), một số tính năng của NN đã được các NN khác hiện đại hơn “mượn”.
dBase [“DataBASE”] là NN lệnh cho chương trình quản lý CSDL mang tính đột phá của Ashton-Tate. Khi chương trình phát triển, NN cũng phát triển và nó trở thành công cụ phát triển. Tới thời kỳ xuất hiện nhiều công cụ và trình biên dịch cạnh tranh, nó chuyển thành chuẩn.
Foxpro là một nhánh phát triển của dBase dưới sự “bảo hộ” của Microsoft. Thực ra nó là công cụ phát triển hơn là NN. Tuy có lời đồn đại về sự cáo chung, nhưng NN vẫn phát triển. Hiện Foxpro có tính đối tượng đầy đủ và có công cụ phát triển mạnh (Visual Foxpro).
Erlang [“Ericsson LNAGuage”] thoạt đầu được hãng điện tử Ericsson phát triển để dùng riêng nhưng sau đó đưa ra bên ngoài như là phần mềm nguồn mở. Là NN cấp thấp xét theo việc nó cho phép lập trình điều khiển những thứ mà thường do HĐH kiểm soát, như quản lý bộ nhớ, xử lý đồng thời, nạp những thay đổi vào chương trình khi đang chạy... rất hữu ích trong việc lập trình các thiết bị di động. Erlang được dùng trong nhiều hệ thống viễn thông lớn của Ericsson.
HASKELL là NN chức năng, nó được dùng để mô tả vấn đề cần tính toán chứ không phải cách thức tính toán.
Microsoft Visual Studio làm cho mọi thứ trở nên dễ dàng miễn là bạn phát triển ứng dụng trên HĐH của Microsoft và sử dụng các NN cũng của Microsoft!
Borland cung cấp các công cụ phát triển tích hợp đầu tiên với tên “Turbo” và nhiều năm nay “lăng xê” một loạt các công cụ có thể chạy trên nhiều nền tảng. C++ Builder và Delphi là các công cụ mạnh để phát triển nhanh các ứng dụng Windows với C++ và Object Pasccal. Kylix đem các công cụ này sang Linux. JBuilder cung cấp các công cụ tương tự để làm việc với Java (có các phiên bản cho Windows, Mac OS, Linux và Solaris).
Metrowerks CodeWarrior hỗ trợ nhiều nền tảng hơn bất kỳ công cụ phát triển nào (có thể kể một số như Windows, Mac OS, Linux, Solaris, Netware, PalmOS, PlayStation, Nintendo...). Công cụ có thể làm việc với nhiều NN: C, C++, Java và Assembly.
Macromedia Studio MX cung cấp mọi thứ cần thiết để tạo các ứng dụng internet và đa phương tiện, được xem như là giải pháp thay thế cho các công cụ lập trình truyền thống. Bộ công cụ kết hợp Dreamweaver và Flash, với các công cụ đồ hoạ Fireworks và Freehand, và máy chủ ColdFusion. Dreamweaver có thể dùng một mình, cho phép phát triển website có CSDL, lập trình với JSP, PHP, Cold Fusion và ASP. Flash cũng là môi trường lập trình mạnh, dùng để tạo ứng dụng đồ hoạ tương tác. Gần như các công cụ chính đều chạy trên Windows và Mac OS.
IBM VisualAge bành trướng gần như mọi hệ thống, từ máy tính lớn đến máy tính để bàn và thiết bị cầm tay. Các NN bao gồm, C++, Java, Smalltalk, Cobol, PL/I và PRG. VisualAge for Java là một trong các công cụ phát triển Java phổ biến nhất.
NetBeans là môi trường phát triển mô-đun, nguồn mở cho Java, được viết bằng Java. Điều này có nghĩa nó có thể dùng trên bất kỳ hệ thống nào có hỗ trợ Java (hầu hết các HĐH). Nó là cơ sở đề Sun xây dựng Sun One Studio, BEA dùng nó cho một phần của WebLogic.
Sun có các công cụ phát triển hiệu quả trong lĩnh vực của mình. Sun ONE Studio cho Java với cả bản thương mại và miễn phí. Sun ONE Studio Compiler Collection cho các nhà phát triển Unix, dùng C/C++. Với tính toán tốc độ cao, hãng có Forte for Fortran và High-Performance Computing.
Oracle JDeveloper thuộc bộ công cụ Internet Developer Suite. Nó chủ yếu dùng để phát triển các thành phần như servlet cho các ứng dụng web, và kết hợp tốt với CSDL Oracle.
WebGain VisualCafé chuyên hỗ trợ phát triển các ứng dụng phía server dùng Java. Công cụ gồm 2 phần: expert (cho ứng dụng phía client), và enteprise (cho ứng dụng server). Cả hai đều dùng Macromedia Dreamweaver Ultradev để xây dựng khung ứng dụng.
GNU Compiler Collection (GCC) là bộ công cụ miễn phí dùng để biên dịch chương trình chạy trên HĐH bất kỳ thuộc họ Unix. Hỗ trợ các NN: C, C++, Objective C, C, Fortran, Java và Ada. Một số công cụ đã được đưa sang DOS, Windows và PalmOS. Đây là các công cụ được lựa chọn của hầu hết các dự án nguồn mở và bản thân chúng cũng là nguồn mở. GCC không có môi trường phát triển ứng dụng tích hợp.
KDevelop là công cụ phát triển nguồn mở dùng để xây dựng các ứng dụng Linux dùng C++. Mặc dù có tên như vậy nhưng nó hỗ trợ giao diện GNOME cũng như KDE, ngoài các ứng dụng dùng Qt hay không có thành phần đồ họa.
Black Adder là công cụ phát triển mạnh cho các NN Python và Ruby. Có thể chạy trên Linux và Windows. Nó sinh mã để dùng các thành phần đồ họa Qt.
Intel/KAI cung cấp các công cụ phát triển nhắm đến các hệ thống đa xử lý và các HĐH họ Unix, dùng C/C++ và Fortran. Công cụ KAP cho phép chuyển các ứng dụng xử lý đơn sang kiến trúc đa xử lý.
Nguồn: PCworld.com.vn